RESISTANT STARCH (RS) - A REVIEW
RESISTANT STARCH (RS)
Resistant starch (RS) được định nghĩa là
tổng lượng tinh bột và các sản phẩm từ tinh bột không bị tiêu hóa trong ruột
non của người khỏe mạnh (Asp 1992) và một phần nhỏ được lên men bởi vi sinh
vật trong ruột tạo ra các sản phẩm có lợi cho vật chủ như các acid béo mạch ngắn
RS đóng vai trò như chất xơ rút ngắn thời gian tiêu hóa của thực phẩm và giảm sự
phát triển của các tổn thương về đường ruột (Topping D & Clifton P. 2001). RS có thể được phân thành 4 loại như dưới:
Ø
Tinh bột khó tiêu hóa loại 1 (RS1): Là phần tạo thành trong quá trình nghiền các hạt
lương thực cứng trong quy trình chế biến thực phẩm. RS1 rất bền với nhiệt trong
hầu hết quá trình nấu thông thường.
1. Cấu
trúc của RS1
Ø Tinh bột khó tiêu hóa loại 2 (RS2) : Trong tinh bột,
nó là thành phần xếp chặt trong cấu trúc hạt, có khả năng dehydrate khá lớn. Với
cấu trúc xít chặt nên ngăn cản sự thủy phân bởi enzim amilaza. Thành phần này
không tiêu hóa được ở ruột non. Nó có nhiều trong tinh bột của quả chuối.
2. Cấu trúc RS2
Ø Tinh bột khó tiêu hóa loại 3 (RS3): Là thành phần amiloza
thoái hóa trong quá trình tạo gel và làm lạnh tinh bột. Có nhiều trong các
sản phẩm chế biến nhiệt ẩm như bánh mỳ, khoai tây sấy,..nó không bị tiêu hóa kể
cả enzim của dịch tụy.
3. Cấu
trúc của RS3
Ø Tinh bột khó tiêu hóa loại 4 (RS4): Là
thành phần RS có trong tinh bột biến tính hóa học. như tinh bột ester (starch
esters), tinh bột ether (starch ethers) và tinh bột liên kết ngang
(cross-linked starches). Trong cấu
tạo của nó ngoài liên kết α 1-4 và 1-6 glucozit còn có các liên kết khác.
Khi RS đến ruột sẽ bị lên men bởi vi sinh vật
đường ruột tạo ra các sản phẩm có lợi như tác dụng nhuận tràng, giúp các vi
sinh vật phát triển mạnh mẽ hơn vì vậy nó có chức năng giống một prebiotic
(Topping D và công sự 2001). Sản phẩm là các acid béo mạch ngắn như
butyrate, propionate có lợi cho đường ruột. Về giá trị năng lượng của RS trong
thực phẩm đã được tính toán là 2 kcal/g (Liversey 1994). Dưa trên năng lượng RS
đã được đề xuất như một thành phần trong chế độ ăn có thể giúp giảm cân (Tapell, 2004). Làm giảm pH, phòng sự suy giảm lớp nhầy bảo vệ ruột kết, giảm
nguy cơ mắc ung thư ruột kết.
Nhận xét
Đăng nhận xét