Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Science news

POSTS BY TOPICS

[LƯỢM LẶT] 5 lựa chọn quan trọng nhất của số phận https://sinhvienthucpham.blogspot.com/2019/03/5-lua-chon-quan-trong-nhat-cua-so-phan.html 15 điều người thành công không bao giờ làm https://sinhvienthucpham.blogspot.com/2019/03/15-ieu-nguoi-thanh-cong-khong-bao-gio.html [ ANALYTICAL METHOD] Pros and Cons of Three High-Resolution Mass Spec Approaches https://sinhvienthucpham.blogspot.com/2019/05/analytical-methods-pros-and-cons-of.html Points to Consider in Quality Control Method Validation and Transfer https://sinhvienthucpham.blogspot.com/2019/05/analytical-method-points-to-consider-in.html Đánh giá sự phù hợp, Thử Nghiệm, Chứng Nhận, Giám Định, Kiểm Định https://sinhvienthucpham.blogspot.com/2019/10/blog-anh-gia-su-phu-hop-thu-nghiem.html QUALITY CONTROL (QC) AND QUALITY ASSURANCE (QA) https://sinhvienthucpham.blogspot.com/2019/05/quality-management-quality-control-qc.html Quy tắc làm tròn số và cách viết kết quả trong nghiên cứu thực nghiệm https://sinhvienthucpham.blogspot.com/201...

Chlormequat - thuốc trừ sâu hiếm gặp - được phát hiện trong 80% số người được kiểm tra

Hình ảnh
  Chlormequat là một loại thuốc trừ sâu hiếm gặp được phát hiện trong 80% số người được kiểm tra VIẾT BỞI: Carmen Leitch Thuốc trừ sâu thường được sử dụng trong nông nghiệp, và thuật ngữ này có thể ám chỉ đến các loại thuốc diệt cỏ, nhắm vào cỏ dại; thuốc trừ sâu giết hoặc kiểm soát côn trùng; và thuốc diệt nấm giúp giảm sự phát triển của mốc hoặc nấm mốc. Chlormequat là một loại thuốc trừ sâu hiếm gặp được sử dụng để kiểm soát sự phát triển của cây trồng. Khi được áp dụng vào các loại hạt như lúa mì, lúa mạch, hoặc yến mạch, ví dụ, nó ngăn chúng khỏi gãy cong và gãy rụng, điều này sẽ làm giảm sản lượng và chất lượng hạt. Chlormequat Một nghiên cứu nhỏ mới đã xác định rằng chlormequat hiện diện trong nước tiểu của bốn người trong mỗi nhóm năm người được kiểm tra, tức là 80%. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu tìm kiếm thuốc trừ sâu trong các mẫu nước tiểu của 96 người, được thu thập từ năm 2017 đến năm 2023; họ đã tìm thấy chlormequat trong 77 mẫu. Khi hiện diện, mức độ chlor...

Bioluminescence is Even Older Than We Knew

Hình ảnh
  Phát quang sinh học ( BIOLUMINESCENCE ) cổ hơn cả chúng ta nghĩ VIẾT BỞI: Carmen Leitch Một số loài sinh vật tỏa sáng tự nhiên, trong hiện tượng được biết đến là ánh sáng sinh học. Được cho là tính năng này đã tiến hóa độc lập ở nhiều loài động vật ít nhất là 94 lần, và đã liên kết với một loạt các hành vi như giao tiếp, ngụy trang và săn mồi. Những loài giáp xác, sống cách đây khoảng 267 triệu năm, được cho là là những sinh vật tỏa sáng sinh học cổ nhất. Nhưng nghiên cứu mới đã đẩy các loài giáp xác đó ra khỏi danh sách những sinh vật tỏa sáng sinh học cổ nhất. Theo báo cáo trên Tạp chí Hoàng gia B: Khoa học Sinh học, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng octorals, là các động vật không xương sống biển sống cách đây khoảng 540 triệu năm, hiện là sinh vật tỏa sáng sinh học cổ nhất được biết đến. A deep-sea, bioluminescent octocoral: Iridogorgia magnispiralis / Credit: NOAA Office of Ocean Exploration and Research, Deepwater Wonders of Wake Các nhà khoa học quan tâm đến lý do t...

Using AI to predict cancer treatment response

Hình ảnh
  Sử dụng Trí tuệ Nhân tạo để dự đoán phản ứng điều trị ung thư VIẾT BỞI: Ryan Vingum Một nhóm nghiên cứu tại Chương trình Tế bào phân tử Ung thư tại Trung tâm Nghiên cứu Y học Sanford Burnham Prebys đã thiết kế một hệ thống Trí tuệ Nhân tạo mới có thể giúp các chuyên gia ung thư xác định những bệnh nhân có khả năng phản ứng và hưởng lợi nhiều nhất từ các liệu pháp ung thư được nhắm đến. Nghiên cứu của nhóm đã được công bố trong một bài báo gần đây trên Tạp chí Nature Cancer. Mặc dù các phương án như hóa trị và phóng xạ đã là trụ cột của việc điều trị ung thư trong nhiều thập kỷ, nhưng các tiến bộ gần đây trong y học đã thấy sự tập trung mạnh mẽ vào việc tạo ra các loại thuốc chính xác, đặc biệt là cho ung thư. Các loại thuốc này có thể biến từ các liệu pháp ung thư được cá nhân hóa mạnh mẽ đến các liệu pháp được thiết kế để nhắm vào các tác nhân gây ung thư cụ thể rất cụ thể; ví dụ, một số loại thuốc có thể nhắm vào các loại ung thư do một loại đột biến gen nhất định gây ra. Ý tưở...

Sản phẩm làm thẳng tóc: An toàn... hay không?

Hình ảnh
  Sản phẩm làm thẳng tóc: An toàn... hay không? VIẾT BỞI: Greta Anne Rối loạn chức năng thận cấp (Acute kidney injury -AKI) là một tình trạng nghiêm trọng được đặc trưng bởi sự giảm đột ngột chức năng thận. Trong khi các loại thuốc và độc tố môi trường được biết đến là nguyên nhân, các sản phẩm làm thẳng tóc đã nổi lên như một thủ phạm tiềm ẩn nhưng chưa được công nhận. Một nghiên cứu gần đây được công bố trong Tạp chí Bệnh Thận Mỹ giữa các liệu pháp làm thẳng tóc và AKI. Quá trình làm thẳng tóc đã tiến triển qua nhiều năm, với các liệu pháp dựa trên keratin trở nên phổ biến do tính hiệu quả và tính linh hoạt của chúng. Tuy nhiên, lo ngại đã nảy sinh về sự an toàn của thành phần hóa học của những sản phẩm này. Ban đầu chứa formaldehyd, một chất gây ung thư và dị tật được biết đến, những liệu pháp này đã chuyển sang các dẫn xuất axit glycolic đáp ứng với các hạn chế quy định. Mặc dù được quảng cáo là "không chứa formaldehyd," nhưng vẫn có lo ngại về sự an toàn của chúng, đặc b...

[How] Minimal Risk Levels (MRLs) and How to determine safety factors (uncertainty factors)

Hình ảnh
The Acceptable Daily Intake (ADI) The Acceptable Daily Intake (ADI) procedure has been used to calculate permissible chronic exposure levels for humans based on non-carcinogenic effects. The ADI is the amount of a chemical to which a person can be exposed each day for a long time (usually lifetime) without suffering harmful effects. It is determined by applying safety factors (to account for the uncertainty in the data) to the highest dose in human or animal studies which has been demonstrated not to cause toxicity (NOAEL).  The EPA has slightly modified the ADI approach and calculates a Reference Dose (RfD) as the acceptable safety level for chronic non-carcinogenic and developmental effects. Similarly, the ATSDR calculates Minimal Risk Levels (MRLs) for noncancer endpoints. The critical toxic effect used in the calculation of an ADI, RfD, or MRL is the serious adverse effect which occurs at the lowest exposure level. It may range from lethality to minor toxic effects. It ...

[Food Additives] Colour in food and beverages

Hình ảnh
1. Additive colour definition (EU Regulation 1333/2008) ‘Colours’ are substances which add or restore colour in food, and include natural constituents of foods and natural sources which are normally not consumed as foods as such and not normally used as characteristic ingredients of food. Preparations obtained from foods and other edible natural source materials obtained by physical and/or chemical extraction resulting in selective extraction of the pigments relative to the nutritive or aromatic constituents are colours. 2. Main colouring additive pigments There are four main classes of plant pigment: chlorophylls, carotenoids, anthocyanins and betalains, which account for the majority of naturally derived colours added to food. An understanding of the properties of each pigment is helpful when reformulating to remove one or more artificial colours, as colours derived from natural sources are typically less stable than chemically synthesised colour. 3. Main colouring foods...

[Science News] Eating nuts could boost fertility in men, according to a new study?

Hình ảnh
A new study has found eating two handfuls of nuts a day could improve men's sperm counts. Only fertile men were studied, so more research is needed to find out whether men with fertility problems would get the same benefits. This research comes after an alarming study found that men's sperm counts in the western world have been dropping since 1973. Nuts are high in vitamins and fibre, and there's also  some evidence they may be good for keeping your heart healthy . According to a new study,  presented by the European Society of Human Reproduction and Embryology , eating nuts could also help improve male fertility. Researchers from Rovira i Virgili University in Spain recruited 119 men aged 18 to 35, and divided them into two groups. One group ate 60 grams, about two handfuls, of almonds, hazelnuts, and walnuts with their usual diet every day, while the second group ate none. They were followed up after 14 weeks, and those who ate the nuts had significant imp...