The notion of "Nước mắm" - a kind of Vietnamese traditional sauce
“nước mắm” + “truyền thống”
1. Nước
mắm (nuoc-mam)
“Nước
mắm”
theo tên riêng của chính nó là một loại sản phẩm từ cá lên men ủ cùng muối, nó
được chế biến và sử dụng phổ biến ở Việt Nam cũng như các loại “fish sauce”
khác ở Đông Nam Á và nhiều vùng trên thế giới. Chất lượng nước mắm phụ thuộc
vào nhiều yếu tố và đòi hỏi kinh nghiệm cao [4]. Mặc dù tồn tại với sự khác biệt
về nguồn gốc các loài cá nguyên liệu đầu vào, công nghệ chế biến và tên gọi (“nước
mắm” ở Việt Nam, “nampla” ở Thái Lan, “patis” ở Philippines, “shottsuru”
ở Nhật Bản và “yeesui” ở Trung Quốc) [1], nước mắm từ các quốc gia khác
nhau có cùng một nguyên tắc đó là quá trình lên men cá bằng cách tự phân hủy ở
nồng độ muối cao.
Ở Việt Nam, khái niệm “Nước mắm” lần đầu
tiên được định nghĩa một cách hợp pháp trong Sắc lệnh của Chính phủ Đông Dương,
bằng tiếng Pháp (the Order of Indochina Government) ngày 21 tháng 12 năm
1916: “Nước mắm là kết quả của quá trình ngâm cá trong dung dịch muối biển
đậm đặc, về cơ bản là dung dịch muối của các anbumin ở một mức độ phân hủy
nhất định” [2].
Một trong những nghiên nghiên cứu đầu tiên về thành phần hóa học của nước mắm và công bố tại Việt Nam là nghiên cứu của Viện Pasteur Sài Gòn vào năm 1918 [3]. Trong nghiên cứu này, Tiến sĩ Rosé đã trình bày kết quả khảo sát về chế biến nước mắm ở Việt Nam trên các khía cạnh khác nhau, từ nguyên liệu, công nghệ, thành phần hóa học, sản xuất cho đến những đề xuất trong việc kiểm soát chất lượng và phát triển công nghiệp sản phẩm này.
2. Truyền
thống (tradition)/tính truyền thống (traditional)
Theo
định nghĩa của Ủy ban Châu Âu, một loại thực phẩm được coi là truyền thống nếu “cách
sử dụng được chứng minh là được truyền giữa các thế hệ với một thế hệ con người
ít nhất là 25 năm” [7] (Council Regulation (EC) Số 509/2006).
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, trong Quy định (EU) số 1151/2012, Điều 3, “truyền
thống” có nghĩa là “việc sử dụng đã được chứng minh trên thị trường nội
địa trong một khoảng thời gian cho phép truyền giữa các thế hệ; khoảng thời
gian này ít nhất là 30 năm”. Ở châu Âu, định nghĩa chính thức duy nhất được
tìm thấy cho các sản phẩm thực phẩm truyền thống đến từ Bộ Nông nghiệp
Ý, định nghĩa sản phẩm thực phẩm truyền thống là “Các sản phẩm nông nghiệp
có phương pháp chế biến, bảo quản và làm chín được củng cố theo thời gian theo
cách sử dụng thống nhất và liên tục tại địa phương” [7]. Mặc dù các định
nghĩa này cố gắng nắm bắt các khía cạnh khác nhau của khái niệm sản phẩm thực
phẩm truyền thống, nhưng vẫn còn thiếu một góc nhìn, đó là định nghĩa về khái
niệm này nhìn từ quan điểm của người tiêu dùng.
Tóm
lại, thực phẩm truyền thống là biểu hiện của văn hóa, bản sắc, di sản và lối sống.
Thói quen ăn uống cũng góp phần tạo nên quan niệm về món ăn truyền thống. Định
nghĩa về thực phẩm truyền thống cũng được áp dụng cho các thành phần truyền thống
và phương pháp chuẩn bị truyền thống. Các phương pháp tiêu dùng truyền thống
cũng thay đổi theo văn hóa, ví dụ người Ả Rập và Ấn Độ dùng tay để ăn, trong
khi người Trung Quốc và châu Âu sử dụng đũa và thìa. Từ các nghiên cứu và khảo
sát của Guerrero và cộng sự (2009), một món ăn truyền thống phải được gắn với một
vùng miền hay vùng lãnh thổ, và một định nghĩa được khoa học chấp nhận về thực
phẩm truyền thống, có xét tới góc độ người tiêu dùng có thể là:
“một sản phẩm được tiêu
thụ thường xuyên hoặc gắn liền với các lễ kỷ niệm và/hoặc các mùa cụ thể, thường
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, được làm chính xác theo một cách cụ
thể theo di sản ẩm thực, ít hoặc không qua xử lý/thao tác, được phân biệt và biết
đến nhờ các đặc tính cảm quan của nó và gắn với một địa phương, một vùng hay một
quốc gia nào đó” [5] .
Liên
minh châu Âu nhằm thúc đẩy, bảo vệ tên tuổi và quản lý chất lượng của sản phẩm
thực phẩm truyền thống đã xây dựng ba chương trình chỉ dẫn địa lý và đặc sản
truyền thống. Ngay từ năm 1992, Liên minh Châu Âu đã ban hành các quy định cụ
thể để chỉ định các sản phẩm gắn liền với yếu tố truyền thống: Chỉ định Xuất xứ
được Bảo vệ (Protected Designation of Origin - PDO), Chỉ dẫn Địa lý được
Bảo vệ (Protected Geographical Indication - PGI) và Bảo đảm Đặc sản
Truyền thống (Traditionally Specific Guaranteed - TSG). Các chương trình
này giúp khuyến khích việc sản xuất các loại thực phẩm độc đáo dựa trên đặc điểm
đất đai, tổng hợp và cảm quan, cũng như phương pháp sản xuất, chế biến của
chúng [6].
Reference
1.
Fukui Y, Yoshida M, Shozen K, Funatsu Y, Takano T, Oikawa H, et al. Bacterial
communities in fish sauce mash using culture-dependent and -independent
methods. J Gen Appl Microbiol. 2012; 58: 273-281.
2.
Aldrin JF, Briand Y, Verger B.
Études sur les nuoc-mam de poissons de mer en Côte-d’Ivoire. Rev Elev Med Vet
Pays Trop. 1969; 22: 249-270.
3.
Rosé ME. Le nuoc-mam (eau de poisson)
Condiment national Indochinois Source Économique De Matière Azotée. Série
Saigon Bulletin. Saigon: C. Ardin & Fils, Imprimeurs-Éditeurs. 1918; 18.
4.
DANG NGHIA, Ngo; SI TRUNG, Trang; VAN DAT, Pham. “Nuoc Mam” Fish sauce in
Vietnam: a long history from popular seasoning to health benefit bioactive
peptides. Annals of Food Processing and Preservation, 2017.
5.
Al-Khusaibi, Mohammed, and Mohammad Shafiur
Rahman. "Traditional Foods: Overview." Traditional Foods (2019):
1-8.
6. Skalkos, Dimitris. "Traditional Foods in Europe:
Perceptions & Prospects in the New Business Era." International
Business Review 7.6 (2021): 549-568.
7. Skalkos, Dimitris. "Traditional
Foods in Europe: Perceptions & Prospects in the New Business
Era." International Business Review 7.6 (2021): 549-568.
8.
Lee, G. How to Protect Traditional Food and Foodways Effectively in Terms of
Intangible Cultural Heritage and Intellectual Property Laws in the Republic of
Korea. International Journal of Cultural Property, (2018): 25(4),
543-572.
Nhận xét
Đăng nhận xét